Điều cần biết khi can thiệp động mạch vành

Leave a Comment
Điều cần biết khi can thiệp động mạch vành
Điều trị can thiệp động mạch vành qua ống thông là một biện pháp điều trị bệnh động mạch vành rất hiệu quả và an toàn. Có 2 bước chính phải làm là chụp đồng mạch vành đánh giá vị trí và mức độ tổn thương và làm rộng lòng động mạch vành bằng bóng nong và stent.

Bệnh tim mạch hiện đang gia tăng và được coi là mối đe dọa tử vong và tàn phế hàng đầu trên thế giới cũng như ở nước ta. Vì thế khoa học tim mạch cũng phát triển để hạn chế các tác hại đó. Một trong những kĩ thuật chẩn đoán và điều trị về tim mạch được áp dụng đó là can thiệp động mạch vành (ĐMV) qua thông dò tim (catheter).

Điều trị can thiệp ĐMV qua ống thông là một biện pháp điều trị bệnh ĐMV rất hiệu quả và an toàn. Có 2 bước chính phải làm là chụp ĐMV đánh giá vị trí và mức độ tổn thương và làm rộng lòng ĐMV bằng bóng nong và stent. Quá trình chụp và can thiệp ĐMV được thực hiện tại phòng thông tim với hệ thống máy chụp mạch số hoá xoá nền. Để thực hiện kĩ thuật này, người bệnh cần biết các bước như sau:

evavn blog

Hình 1. Mổ tim tại khoa Ngoại Tim mạch Bệnh viện Đại học Y Dược

Chuẩn bị

Trước hết bệnh nhân (BN) được nhập viện, làm các xét nghiệm cần thiết: điện tâm đồ, chụp Xquang tim phổi, các xét nghiệm máu thông thường. Bác sĩ sẽ giải thích về mục đích, các kết quả có thể đạt được, cũng như các biến chứng có thể gặp và các bước tiến hành chụp ĐMV. Bác sĩ sẽ trả lời các thắc mắc của BN và gia đình. BN cần nói cho bác sĩ biết về các thuốc đang dùng, những thuốc bị dị ứng hay có chống chỉ định vì tác dụng phụ, một loại thuốc đặc biệt chú ý là aspirin. BN thường được yêu cầu nhịn ăn 6 giờ trước khi làm thủ thuật và không được hút thuốc khi nhập viện.

Tại phòng chụp mạch

BN nằm trên bàn có các hệ thống chiếu chụp và màn hình được điều khiển tự động. Một số thiết bị được gắn trên người BN: máy điện tâm đồ, máy đo huyết áp. Các y tá sẽ lập một đường truyền phía bên tay trái để tiêm thuốc khi cần thiết. BN có thể được dùng thuốc để giảm bớt sự lo lắng, căng thẳng nếu cần. BN sẽ hoàn toàn tỉnh táo trong khi làm thủ thuật. Tùy vị trí mà bác sĩ đã lựa chọn, đường vào cho ống thông được mở ở vùng bẹn hoặc ở vùng cổ tay. Trước hết, vùng da đặt đường vào được gây tê và BN chỉ thấy đau tức nhẹ trong lúc này. Khi thuốc tê có tác dụng, BN sẽ không thấy một cảm giác khó chịu nào. Lần lượt các dụng cụ được đưa vào cơ thể qua đường này. Các ống thông được đưa vào đúng vị trí của ĐMV. Dung dịch chất cản quang được bơm vào ĐMV qua ống thông, trong khi đó hệ thống máy sẽ chụp tự động theo quy trình mà bác sĩ đã đặt ra. Chụp ĐMV sẽ giúp chẩn đoán xác định bệnh, đánh giá chính xác mức độ tổn thương (hẹp) của hệ ĐMV và giúp lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất.

Kĩ thuật nong bằng bóng

Đầu tiên phẫu thuật viên sẽ đưa một ống thông can thiệp có độ vững chắc vào nhánh ĐMV cần can thiệp. Sau đó, một dây dẫn mềm, rất nhỏ được luồn qua ống thông can thiệp tới nhánh ĐMV, lách qua chỗ hẹp hoặc tắc. Dụng cụ này có tác dụng như một đường ray để dựa trên đó các bác sĩ sẽ đưa các dụng cụ khác như bóng nong, stent trượt lên. Bóng nong sau đó được luồn qua ống thông can thiệp, trượt trên dây dẫn đi tới vị trí chỗ hẹp hay tắc. Bóng được bơm căng lên bằng một dụng cụ đặc biệt với áp lực từ 620 átmốtphe. Trong lúc bơm bóng, BN có thể thấy đau ngực. Khi bóng đã nở hoàn toàn, ép các mảng xơ vữa vào thành mạch, lòng mạch được mở rộng thì bóng sẽ được làm xẹp và rút ra ngoài. Nếu tổn thương chỉ cần nong bằng bóng thì thủ thuật sẽ dừng lại ở đây và bác sĩ rút các dụng cụ ra khỏi cơ thể BN.

evavn blog

Hình 2.Đặt stent động mạch cổ an toàn và hiệu quả

Đặt khung đỡ stent để duy trì khẩu kính của lòng mạch

Cũng như kĩ thuật nong bóng, bóng gắn stent được luồn vào trong ống thông can thiệp, đẩy trượt trên dây dẫn. Bóng gắn stent được đưa vào đúng vị trí ĐMV bị tổn thương, bóng được bơm căng lên để làm nở stent. Với tính chất nhớ hình của mình, stent sẽ áp sát và đẩy mảng xơ vữa ra sát thành mạch làm lòng mạch mở rộng ra. Bóng sau đó được làm xẹp, tách khỏi stent và được rút ra ngoài để lại stent ở vị trí được đặt. Nếu bước này vẫn chưa làm stent nở hết do mảng xơ vữa xơ chắc, bác sĩ sẽ phải dùng thêm một quả bóng khác để nong rộng stent.

Một số điều BN thường băn khoăn: sau khi đặt vào lòng ĐMV, stent có bị gỉ không? Không, vì stent được làm bằng thép y tế không gỉ chịu được sự mài mòn và ôxy hoá cao. Stent có bị dịch chuyển sau khi đặt vào lòng ĐMV không? Không, vì stent được cấy vào lòng ĐMV với áp lực rất cao (từ 1020 átmốtphe) do vậy stent sẽ cố định tại vị trí đặt vĩnh viễn. Stent có bị hỏng không? Không, stent sẽ không bị hỏng về cấu trúc sau khi đặt. Tuy nhiên có một tỉ lệ từ 1015% BN được đặt stent thường và 12% BN được đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ có thể bị tái hẹp trong lòng stent. Nếu ĐMV bị tái hẹp trong lòng stent thì sao? Nếu bị tái hẹp trong lòng stent thì có thể phải nong và đặt stent lại tại vị trí tái hẹp, điều này sẽ không ảnh hưởng gì đến kết quả của thủ thuật. Nếu tổn thương quá nặng, không thể nong và đặt stent được thì có thể phải phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành.

Chăm sóc sau thủ thuật

Sau thủ thuật, BN được đưa về khu điều trị và được theo dõi nhịp tim và huyết áp liên tục, theo dõi sự chảy máu nơi đường vào sau rút ống thông (đã được băng ép) vào vị trí này trong 1520 phút để cầm máu. Sau đó, vị trí làm đường vào được băng ép chặt lại. Nếu vị trí đường vào ở vùng bẹn, BN phải nằm bất động và duỗi chân thẳng trong 612 giờ. Khi ho, BN phải dùng ngón tay ấn chặt vào vị trí băng ép. Nếu vị trí đường vào ở vùng cổ tay thì các cử động của BN không phải gò bó gì cả. Bất cứ biểu hiện gì ở vùng băng ép như: chảy máu, đau, tụ máu, ... hãy nói ngay với thầy thuốc.

BN cần uống nhiều nước sau thủ thuật để thải nhanh thuốc cản quang. Sau thời gian phải nằm bất động như trên, BN cần được đi lại. BN được ra viện sau 1 hoặc 2 ngày. Về nhà nếu có các dấu hiệu bất thường BN phải quay lại khám ngay, nếu bình thường thì khám lại theo lịch hẹn. Có 2 thuốc rất quan trọng mà BN phải dùng sau can thiệp ĐMV là: aspirin dùng kéo dài, clopidogrel dùng trong 4 tuần với stent thường và 12 tháng với stent giải phóng thuốc tại chỗ tùy theo chỉ định của bác sĩ. Khi ra viện, việc tuân thủ chế độ sinh hoạt và uống thuốc theo đơn là yếu tố quyết định cho sự thành công của can thiệp. Việc tái khám, chụp ĐMV kiểm tra sự mở rộng của lòng mạch sau can thiệp 612 tháng là rất quan trọng vì sẽ giúp bác sĩ có một phác đồ phù hợp hơn và biết trước các nguy cơ sẽ xảy ra như sự tái hẹp muộn.

Chú ý: sau điều trị can thiệp, BN nên trở lại với các hoạt động hằng ngày một cách từ từ, duy trì những thói quen tốt như tập luyện đi bộ, tập thể dục đều đặn, ăn nhạt, kiêng mỡ, không ăn các phủ tạng động vật, ăn ít trứng, sữa, tránh các căng thẳng quá mức. Theo dõi sức khoẻ thường xuyên, dùng thuốc đều đặn và tới khám lại đúng hẹn theo lời dặn của bác sĩ. Không nên bi quan về bệnh tật của mình. Hãy đến gặp bác sĩ để có các thông tin cần thiết, hãy liên lạc với những người có cùng phương pháp điều trị để trao đổi kinh nghiệm trong cuộc sống và phòng bệnh.

PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn

(theo SKĐS)

0 comments :

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.